Sau cơn đột quỵ, sự ra đi đột ngột của mẹ khiến bố con tôi bàng hoàng. Lúc ấy tôi còn rất nhỏ chưa hiểu hết được cái chết là gì và nỗi đau vĩnh viễn mất mẹ. Kể từ ngày đó kinh tế gia đình bắt đầu tụt dốc, chúng tôi phải đối mặt với sự vất vả và thiếu thốn.
Tuổi thơ nhung lụa và bước ngoặt đầu đời
Thời bao cấp, thời mà mọi thứ đều mua trên tem phiếu, cái đói, cái khát đeo bám trong những gia đình nheo nhóc đông con. Gia đình tôi thời ấy nhờ bàn tay tháo vát của mẹ nên cũng thuộc diện giàu có trong cái thị trấn ở xứ Lạng này. Là con út, sống trong cảnh nhung lụa từ nhỏ tôi được cả nhà nuông chiều. Trong khi chúng bạn đứa bé phải mặc lại quần áo của đứa lớn, cũ nát vá chằng vá đụp thì tôi luôn có quần áo mới đẹp đẽ, thậm chí giầy của tôi còn được đặt đóng riêng mẹ mang từ Hà Nội về. Những gì tôi có lúc ấy luôn là niềm ước ao ghen tị của bạn bè đồng lứa.
Rồi một ngày năm tôi lên 10, mẹ vĩnh viễn ra đi trong cơn đột quỵ nhồi máu cơ tim. Tôi còn nhỏ quá lại có chút ngốc nghếch ngây thơ, thấy cô bác chít khăn tang cho mình thì lấy làm thích thú phấn khởi lắm. Mãi khi mọi người đưa tôi vào nhìn mặt mẹ lần cuối tôi mới chợt òa khóc. Lúc ấy tôi nhận thấy có điều gì đó rất nghiêm trọng đang xảy ra, tôi bắt đầu hiểu mình sẽ không bao giờ có thể gặp lại mẹ được nữa. Đó là bước ngoặt đầu đời mà tôi phải trải qua. Mất mẹ gia đình tôi mất đi chỗ dựa vững chắc cả về kinh tế lẫn tinh thần, kinh tế nhà tôi bắt đầu tụt dốc không phanh.
Bước ra đời với thân thể yếu ớt, mặc cảm
Tôi là đứa trẻ bản tính vốn không nhanh nhẹn, lực học lại làng nhàng, khi gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt các bữa ăn rất đơn giản tôi trở nên gầy gò ốm yếu, chẳng làm nổi việc nặng. Rồi thời gian vẫn cứ trôi đi, tôi lớn dần lên tốt nghiệp phổ thông rồi học nghề, lấy bằng tại một trường trung cấp, rồi đi làm. Vì không có sức khỏe nên công việc công nhân đối với tôi luôn luôn quá sức, cầm cái cờ lê, mỏ lết vừa to vừa nặng đôi lúc còn phải cầm cả hai tay mới có thể làm được. Quá trình đi làm cũng là một bước ngoặt lớn thứ hai trong đời vì tôi luôn phải cố gắng mỗi ngày. Nhiều lúc cảm thấy một nỗi cô đơn vô hình bất lực với cuộc sống, thấy mình kém cỏi, thấy mình thật đáng thương. Vì bản tính hiền lành và lương thiện nên tôi được nhiều đồng nghiệp động viên và giúp đỡ. Trải qua một đẫn thời gian sức khỏe của tôi cũng dần dần được cải thiện. Tôi đã có thể một tay cầm cái mỏ lết nặng trịch để làm việc không còn như xưa nữa.
Đi làm một thời gian tôi xây dựng tổ ấm cho riêng mình lấy vợ và sinh con. Hạnh phúc thật giản dị và ấm áp, vợ chồng tôi cũng làm ăn chăm chỉ để có thể bằng bạn bằng bè. Vào một ngày cuối đông năm 2004 khi con tôi hơn hai tuổi, tôi thấy ở dưới hai cẳng chân bắt đầu có những biểu hiện bất thường. Nó sưng lên rất đau đớn, tôi buộc phải đi bệnh viện để thăm khám.
Phát hiện bệnh nan y khi tuổi còn trẻ
Qua các xét nghiệm bác sĩ kết luận tôi bị Hồng Ban Nút mà với cơ địa và tiến trình phát triển bệnh trên thân thể tôi là vô phương cứu chữa, phải chấp nhận sống chung với nó đến khi chết. Di chứng của nó cũng rất nguy hiểm, chỗ sưng viêm dễ gây tắc nghẽn mạch máu và dẫn đến hoại tử tháo khớp.
Vì từ nhỏ lúc mẹ sinh tôi có hỗ trợ bằng forceps kéo thai ra, tôi bị kẹp ở sau gáy đúng huyệt Ngọc Trẩm nên ảnh hưởng sau sinh làm tôi bị giảm trí nhớ. Khi lớn lên cũng sinh ra nhiều bệnh như mất ngủ triền miên, mắt hay bị viêm đau. Tôi còn bị viêm hai khớp vai giơ tay lên rất khó khăn, viêm đại tràng co thắt, bệnh trĩ tuy đã cắt nhưng thỉnh thoảng vẫn đi ngoài ra máu. Mổ ruột thừa hai lần do bác sĩ chuẩn đoán sai, mổ vai do gãy sương quai xanh vì tai nạn. Tôi uống quá nhiều thuốc nên dạ dày cũng bị đau, viêm loét… Tôi trở thành kẻ cực kỳ khó tính và cáu bẳn, vợ đã phải chịu đựng tôi suốt ngần ấy năm bệnh tật.
Để điều trị bệnh Hồng Ban Nút tôi phải nằm điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh, rồi viện da liễu Trung ương, viện 103. Tôi chỉ còn da bọc xương, chị cả thấy tình cảnh tôi như vậy nghĩ rằng tôi sẽ không qua được. Chị gọi vợ tôi ra mà nói rằng nếu tôi có mệnh hệ gì thì để chị nuôi cháu, mợ còn trẻ, còn cần đi bước nữa.
Khi nằm điều trị ở viện 103 tôi xém chút đã không giữ được đôi chân của mình. Chị tôi thì khóc còn vợ tôi cả đêm không ngủ được. Các bác sĩ hết lòng cứu chữa và ông trời cũng che đỡ cho nên tôi đã vượt qua được cơn nguy kịch ấy. Một tháng sau tôi ra viện, về rồi đâu lại vào đó, hễ ngưng thuốc là chân lại sưng lên. Bác sĩ nói rằng tuy là bệnh khó chữa nhưng cũng có xác suất người khỏi được, tôi đặt nhiều hy vọng tỷ lệ xác suất hiếm hoi ấy có thể rơi vào mình. Suốt hai năm trời miệt mài rong ruổi trên những chuyến xe đường dài Hà Nội – Lạng Sơn với tia hy vọng có thể thoát khỏi sự thống khổ trong đau đớn.
Tốn tiền mà bệnh vẫn nguyên, tôi tràn đầy thất vọng
Tiền bạc cứ dần đội nón ra đi mà bệnh thì vẫn y nguyên còn đó. Mãi rồi tôi cũng buộc phải đối diện với sự thật khiến tôi không còn nhuệ khí, rằng bệnh của tôi không thể chữa khỏi và tôi cũng không may mắn nằm trong số người hiếm hoi khỏi bệnh.
Tôi không còn hy vọng với tây y nữa, tôi bám víu vào Đông Y, rồi chuyển sang những lá thuốc của người dân tộc. Những thang thuốc của những thầy Lang đó cũng có một chút tác dụng, được vài tháng chân tôi lại sưng lên. Tôi cứ lăn lộn hết chỗ này đến chỗ khác thậm trí đi chữa cả với nhà ngoại cảm, Yoga, khí công dưỡng sinh, Cảm xạ học… Tôi tự lọ mọ lên mạng tìm hiểu đủ các môn tạp nham rồi tự tập. Được hai năm như vậy, môn nào tôi cũng nhiệt tình tập luyện. Khi vào môn học “Sức mạnh vô thức” của bà Đoàn Thanh Hương, Phó chủ nhiệm bộ môn Năng lượng sinh học thuộc Hội Nghiên cứu tiềm năng con người (lúc bấy giờ). Tôi thấy cũng có chút tác dụng tôi không phải dùng thuốc một thời gian, sau đó chân tôi vẫn sưng trở lại. Tất cả những thứ trên cho dù tôi có cố gắng chăm chỉ đến mấy cũng chỉ được một thời gian chân tôi lại sưng lên.
Tôi bị vong nhập thật khó lý giải nhưng đó là sự thật
Năm 2009 cũng là để mong tìm lại được sức khỏe, tôi có tham dự một buổi gọi hồn tại số 1 Đông tác, Hà Nội, gia đình tôi lên để gọi hồn mẹ tôi về. Khi người chủ lễ “tụng” xong thì vong bắt đầu tìm các nhà để “nhập”. Gia đình tôi cũng vậy, vì là một buổi gọi hồn tập thể nên có rất nhiều gia đình khác trong cùng một căn phòng lớn. Lúc đầu vong nhập vào những người khác trong nhà tôi, nhập vào rồi lại bật ra, cuối cùng “nó” nhập vào tôi. Những người khác khi bị vong nhập thì hầu như không biết gì, còn tôi thì chủ ý thức rất minh bạch hoàn toàn biết chỉ không thể khống chế được các hành vi và lời nói của chính mình.
Cái vong ấy không biết có phải là mẹ tôi không, nó làm tôi bò lê lò càng lăn lộn khóc lóc khắp căn phòng, mọi người thi nhau vái lạy. Sau khi người nhà hỏi han một hồi người chủ lễ bắt đầu khấn trục xuất vong đi. Chỉ riêng tôi có thế nào vong cũng không chịu ra, tôi phải sang phòng Thánh điện bên cạnh đảnh lễ thì mới được. Khi trở về Lạng Sơn hai ngày sau tâm trạng tôi rất tồi tệ, một nỗi sợ hãi vô hình lạnh xương sống cứ đeo bám. Cái vong nó nhập trở lại, thậm chí nửa đêm gọi vợ tôi dậy nói là cụ nội…. khiến vợ tôi xanh mắt.
Có rất nhiều chuyện không thể giải thích, không thể kể hết, tôi bị các loại vong nhập chiếm xác. Thân thể tôi cứ như là cái thùng rỗng vậy “họ” ra ra, vào vào như nhà không chủ. Cứ hễ đến nơi tâm linh hoặc nói chuyện đến là “nó” tiến nhập vào. Có một buổi chiều hè vợ tôi bảo hai bố con đi bơi ở bể bơi. Trong thâm tâm tôi rất bất an, tôi thấy một cảm giác lo lắng chuyện gì đó và không chịu đi. Nhưng vì vợ nói không sao hết nên tôi đưa con ra bể. Y rằng vừa ra đến đó tôi bị một cái vong trẻ em nhập vào, “nó” nói rằng “nó” bị chết đuối ở đấy rồi đòi tôi tìm nhà của “nó” cho “nó” về. Tôi đi theo sự chỉ dẫn của “nó” nhưng mãi cũng không tìm ra. Tôi đành đến hỏi cậu bảo vệ bể bơi cũng là bạn của tôi rằng có ai đó đã chết ở đây đúng không? Cậu ấy nói rằng ngày trước đúng là có một đứa trẻ đã bị chết đuối ở đây…
Ngoài chịu đựng bệnh tật, tôi còn phải đối diện với sự quấy phá của cái vong đã theo tôi từ Hà Nội về. Trước khi đi ngủ hễ tôi buông lơi ý thức một chút là “nó” bắt đầu hành hạ, đầu tôi cứ bị lắc và bị bẻ ngoặt sang một bên, người thì rung lên bần bật không thể cưỡng lại được. Đêm nào cũng như thế, phải mất 30 phút “nó” mới “tha” cho tôi, nếu tôi thanh tỉnh, thì nó không làm gì được, nhưng mà thanh tỉnh như vậy thì ngủ làm sao được.
Những ngày đầu tiên, tôi rất sợ hãi và đối diện với “nó” như trận chiến, rất căng thẳng và mệt mỏi. Mất hàng tháng trời như vậy, vợ tôi yêu cầu đi khám thần kinh, tôi biết tôi chẳng bị làm sao cả chỉ vì cái vong kia nó hành hạ thôi. Nể vợ tôi đi khám, bác sĩ kết luận triệu chứng do căng thẳng thần kinh rồi cho một mớ thuốc ngủ mang về. Tôi chẳng thể uống vì tôi có bị làm sao đâu. Tôi cũng đi các nơi để trục xuất cái vong ấy ra mà không nổi, tôi cũng đã đến cả chỗ ông Liên nổi tiếng ở Hải Dương. Lâu dần tôi cũng trơ ra chẳng thèm để ý đến “nó” nữa. Mỗi tối cứ như điệp khúc, phải “hát” xong mới được đi ngủ, “nó” cứ lắc một hồi tôi mới được yên thân. Nằm ngẫn nghĩ cuộc đời mình sao mà gian truân thế, mới có ít tuổi thế này phía trước chặng đường còn ngắn hay dài đâu thể biết, chỉ thấy rằng mỗi ngày trôi đi lại thêm bế tắc. Mỗi lần đi chữa bệnh không còn đơn thuần nữa mà kèm theo việc đuổi vong đi… Đã mấy năm trôi qua, tôi kiệt quệ về tài chính, mệt mỏi về tinh thần, thân bệnh đau nhức khôn nguôi… đầu óc tôi lúc ấy đã lởn vởn đến hai từ “tự vẫn”…
Cho đến một ngày…
Phúc phận lớn tìm lại được sức khỏe mà không tốn một xu
Pháp Luân Công đến với tôi cũng tự nhiên như những môn khí công mà tôi đã tập. Có người nói với tôi rằng Pháp Luân Công có thể chữa được nhiều bệnh, khi ấy tôi chỉ nghĩ đơn giản nó lại như mấy môn mà tôi đã dày công tập ấy mà có khỏi được đâu, nên tôi đã bỏ qua. Nhưng rồi lại có người khác bảo tôi tập cái đó đi nó thực sự rất tốt, tôi bắt đầu tò mò và lên mạng tìm hiểu. Tôi đã đọc những bài giảng trong trang phapluan.org và chấn động hoàn toàn, tôi vỡ ra tất cả về những môn khí công mà hai năm qua tôi đã theo học đều được giải mã một cách hết sức cặn kẽ và minh bạch trong cuốn Chuyển Pháp Luân. Những nguyên lý uyên thâm của Pháp Luân Đại Pháp tầng tầng nội hàm bắt đầu triển hiện cho tôi thấu hiểu, tôi tĩnh tâm nghiêm túc đối đãi với việc đọc cuốn sách này.